Jun 21 2024 - Jun 21 2024

Lưu Công Nhân

Date
  • Jun 21 2024 - Jun 21 2024

Location

Lưu Công Nhân

Lưu Công Nhân (1929-2007) là cựu sinh viên khóa Kháng Chiến (1950-1953) giảng dạy tại chiến khu Việt Bắc của Trường Mỹ thuật Việt Nam, do họa sỹ Tô Ngọc Vân làm hiệu trưởng và trực tiếp giảng dạy. Trong những tháng năm này, Lưu Công Nhân được thầy Tô Ngọc Vân quý mến và dành nhiều tình cảm vì ông sớm bộc lộ tài hoa của mình qua những bài tập và ký họa thực tế, đặc biệt đã đạt tới đỉnh cao kỹ thuật trong việc sử dụng màu nước.

Khác với các họa sỹ cùng thời – thế hệ thiếu thốn đáng kể về vật chất, Lưu Công Nhân là một ngoại lệ. Sau kháng chiến chống Pháp, về lại Hà Nội, ông được xếp vào nhóm họa sỹ sáng tác hưởng biên chế nhà nước; thế nên, ông có sự tự do và thoải mái trong việc đi trực họa ngoài trời ở nhiều địa phương tại Việt Nam. Thêm vào đó, việc gia đình tạo điều kiện để ông có thể tiếp cận và nghiên cứu các tài liệu mỹ thuật nước ngoài nhằm tích lũy tri thức về nghệ thuật đã giúp các tác phẩm của ông thêm phần vững vàng trong bút pháp.

Ngoài ra, ông cũng dành nhiều thời gian để viết thư gửi cho bạn bè và gia đình để chia sẻ suy nghĩ bản thân về nghệ thuật, việc vẽ và nhân cách họa sỹ. Điều này đã giúp cho đời sống tinh thần của ông trở nên phong phú, “hồn nhiên, thơ trẻ hơn trong sự sâu sắc của một người mẫn cảm với tất thảy mọi thứ quanh mình”. Từ đó, tranh ông cũng đậm đà, sâu sắc hơn về mặt ý nghĩa, nội dung.

Nhắc đến tranh của Lưu Công Nhân, đó luôn là hình ảnh một nông thôn Việt Nam – con trâu no đủ gắn bó với người nông dân, đầy chất “tình”, “chất phác, thuần hậu và bình yên” dù trải qua những sự khốc liệt của chiến tranh, hay đó là hình ảnh người phụ nữ “đẹp dung dị mà gợi cảm, dưới vành khăn mỏ quạ”, với đôi mắt đen ướt, “hiền lành và thiết tha tình cảm”.

Các mốc thời gian quan trọng: 

  • 08/01/1960: Chuẩn bị cho triển lãm cá nhân đầu tiên của LCN (gồm 200 bức tranh thể ký họa, trình bày đơn giản và nhẹ nhàng. Trong đó có 40 bức ký họa thời kỳ Kháng Chiến, ghi chép ở các vùng miền núi: phong cảnh bản làng, bà mẹ, anh du kích, dân quân Điện Biên Phủ, Sơn La… Còn lại 160 ký họa ở vùng nông thôn Hải Phòng, nơi mà khi đó, họa sỹ về sinh sống (thôn Tràng Duệ, Kiến An)). – trang 30
  • Theo Bùi Quang Nam (tháng 1/1966): Lưu Công Nhân vẽ đất nước bao giờ cũng có tình. Lũy tre, đồi cọ, con đường làng, cầu quán, chợ búa, sinh hoạt đồng áng, hoạt động của cuộc kháng chiến trước đó đều có những nét tươi mới, nhuần nhị, duyên dáng. Tác giả biết dùng màu, khéo kết hợp trang trí và tạo hình nên tranh của anh nói chung có sức thu hút. Nhưng khi đụng đến một đề tài cụ thể của cuộc sống, trong đó con người đóng vai trò chủ yếu giữa những bối cảnh lịch sử nhất định thì y như là sáng tác của Lưu Công Nhân gặp khó khăn. Dù là ký họa thôi, tranh của tác giả thường thiếu chất sống, thiếu chiều sâu. Không khí trong tranh quá tĩnh, lắm khi hiu hắt, dù phải vẽ một đề tài rất động.” – trang 36
  • Thập niên 60 được xem như là giai đoạn rất đặc biệt trong đời nghệ thuật của Lưu Công Nhân. Đây là giai đoạn ông đi nhiều, vẽ nhiều, đọc và suy ngẫm nhiều, lại đạt được nhiều thành tựu tuy đồng thời trải qua những hoàn cảnh chung khốc liệt (chiến tranh) và hoàn cảnh riêng không 
  • thuận (vợ đi học ở Hungary 3 năm; con nhỏ trong khi chiến tranh liên miên,…). – trang 39
  • Họa sỹ LCN: Tôi đã bỏ phí 10 năm cho hội họa trừu tượng (tuần báo Văn nghệ, số 47, ra ngày 20-11-1999, Triều Dương phỏng vấn: “… Tôi có một xưởng vẽ trong rừng Thác Bà (khoảng năm 1970, 71, 72) để tôi chỉ quanh quẩn với những phiên bản của Hartung, Pollock (những bậc thầy về hội họa trừu tượng), xào xáo cái hư vô trong những giờ phút ấy…” – trang 43
  • Năm 1984-1985: Từ HN, LCN về Hội An tạm trú một thời gian và vẽ đô thị cổ này với rất nhiều cảm xúc, suy ngẫm. Ông đã đón Tết 1985 tại đây. – trang 59
  • LCN: “Đã 38 năm vẽ và đi thực tế lâu dài, tôi giác ngộ được những điều sau đây: Sống một cuộc đời người họa sỹ đích thực mới là điều quan trọng số một. Thứ nhì mới là vẽ ra những tranh … rất họa sỹ. Thứ ba mới đến chuyện đem trưng bày và bán tranh. Một cuộc đời họa sỹ mà tôi hằng ao ước là cuộc đời ở bốn phương trời góc biển. Tôi mong rằng đến 90 tuổi, tôi vẫn còn có thể đứng cầm giá vẽ trước một ngọn núi cao đầy sương mù hay những con sóng biển đổ dồn vào bờ biển cát trắng”. – trang 72
  • Năm 88: ông và gia đình lại chuyển dần lên Đà Lạt sống. 
  • Thập niên 80, thế kỷ 20 tiếp tục là một thập niên của chuyển dịch về nơi chốn, song điều quan trọng nhất trong quãng thời gian này là ông bắt đầu nhận ra được con đường đi với hội họa của mình: con đường của hiện thực và cái đẹp từ hiện thực cuộc sống cùng với những tâm tư và suy ngẫm cá nhân để làm nên bức tranh có “thần hồn, thần tình!” – trang 76
  • Trong giai đoạn này (thập niên 90), ông vẽ nhiều tranh nude. Trong một cuốn sổ, ông bày tỏ: “…Ở Việt Nam ta, chính tớ cũng chưa được nhìn thấy một cái tranh cởi truồng nào đẹp, trừ cô gái nhìn lưng trong bức sơn mài Sau khi giặc qua của ông Vân (họa sỹ Tô Ngọc Vân). Làm sao vẽ nổi được một tấm thân ngọc ngà đẹp hơn tấm thân bằng xương thịt? Tớ cũng chỉ tâm niệm làm được như vậy!… Tớ cứ thử vẽ … mà cũng còn phải vẽ … dày công … Còn làm thế nào khác được?” – trang 88
  • “[…] HỘI HỌA là VOIX DU SILENCE (tiếng nói của sự im lặng) hay ON DOIT  SÉXCUSER EN PARLANT PEINTURE (chúng ta phải xin lỗi khi nói về hội họa). Mấy câu đó là của Malreaux và Valéry, họ đã nói quá đúng để mà khỏi phải nói chuyện nhiều về bức tranh cho nhiễu sự hội họa. Chữ của Văn Tâm đấy. Tôi cứ nghĩ trong thơ Thiền hay chuyện về Thiền có chữ NGỘ. Ở hội họa, tất cả là chuyện NGỘ […]” (Thư gửi một người bạn, đề: Đà Lạt, ngày 22-09-1989) – trang 125

Thứ 2 ‒ Chủ nhật: 09:00 ‒ 20:00

50.000 VND/người

Địa chỉ: 371/4 Hai Bà Trưng, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Điện thoại: +84 357 825 800
Email: info@annamgallery.com